القلم

تفسير سورة القلم

الترجمة الفيتنامية

Vèneto

الترجمة الفيتنامية

ترجمة معاني القرآن الكريم للغة الفيتنامية ترجمها حسن عبد الكريم نشرها مجمع الملك فهد لطباعة المصحف الشريف بالمدينة المنورة، عام الطبعة 1423هـ. ملاحظة: ترجمات بعض الآيات (مشار إليها) تم تصويبها بمعرفة مركز رواد الترجمة، مع إتاحة الاطلاع على الترجمة الأصلي

﴿بِسْمِ اللَّهِ الرَّحْمَٰنِ الرَّحِيمِ ن ۚ وَالْقَلَمِ وَمَا يَسْطُرُونَ﴾

Nun. Thề bởi cây viết và điều mà họ (Thiên Thần) ghi chép.

﴿مَا أَنْتَ بِنِعْمَةِ رَبِّكَ بِمَجْنُونٍ﴾

Do Ân Huệ của Thượng Đế (Allah) của Ngươi (Muhammad!), Ngươi không phải là một kẻ điên.

﴿وَإِنَّ لَكَ لَأَجْرًا غَيْرَ مَمْنُونٍ﴾

Và quả thật, Ngươi sẽ được một phần thưởng không hề dứt.

﴿وَإِنَّكَ لَعَلَىٰ خُلُقٍ عَظِيمٍ﴾

Và quả thật, Ngươi được phú cho những đức tính vĩ đại

﴿فَسَتُبْصِرُ وَيُبْصِرُونَ﴾

Bởi thế, Ngươi sẽ sớm thấy và chúng cũng sẽ sớm thấy,

﴿بِأَيْيِكُمُ الْمَفْتُونُ﴾

Ai trong các ngươi là kẻ mắc bệnh điên.

﴿إِنَّ رَبَّكَ هُوَ أَعْلَمُ بِمَنْ ضَلَّ عَنْ سَبِيلِهِ وَهُوَ أَعْلَمُ بِالْمُهْتَدِينَ﴾

Quả thật, Thượng Đế của Ngươi biết rõ ai lạc khỏi con đường của Ngài và biết ai đi đúng đường.

﴿فَلَا تُطِعِ الْمُكَذِّبِينَ﴾

Bởi thế, chớ nghe theo những kẻ phủ nhận (Thông Điệp của Allah).

﴿وَدُّوا لَوْ تُدْهِنُ فَيُدْهِنُونَ﴾

Chúng mong rằng nếu Ngươi nhượng bộ thì chúng cũng sẽ nhượng bộ.

﴿وَلَا تُطِعْ كُلَّ حَلَّافٍ مَهِينٍ﴾

Và chớ nghe theo từng tên thề thốt đê tiện,

﴿هَمَّازٍ مَشَّاءٍ بِنَمِيمٍ﴾

Một kẻ vu khống chuyên tới lui nói xấu người khác,

﴿مَنَّاعٍ لِلْخَيْرِ مُعْتَدٍ أَثِيمٍ﴾

Ngăn cản điều thiện, thái quá và tội lỗi,

﴿عُتُلٍّ بَعْدَ ذَٰلِكَ زَنِيمٍ﴾

Hung bạo, và ngoài ra, hạ cấp,

﴿أَنْ كَانَ ذَا مَالٍ وَبَنِينَ﴾

Như thế là vì y giàu có và đông con.

﴿إِذَا تُتْلَىٰ عَلَيْهِ آيَاتُنَا قَالَ أَسَاطِيرُ الْأَوَّلِينَ﴾

Khi các Câu Kinh của TA (Allah) được đọc nhắc y, y bảo: “Chuyện của cổ nhân.”

﴿سَنَسِمُهُ عَلَى الْخُرْطُومِ﴾

TA (Allah) sẽ đóng dấu (sỉ nhục) trên mõm (miệng) của y!

﴿إِنَّا بَلَوْنَاهُمْ كَمَا بَلَوْنَا أَصْحَابَ الْجَنَّةِ إِذْ أَقْسَمُوا لَيَصْرِمُنَّهَا مُصْبِحِينَ﴾

Quả thật, TA thử thách chúng như việc TA đã thử thách những người bạn của một ngôi vườn khi chúng thề sẽ hái hết trái cây vào một buổi sáng.

﴿وَلَا يَسْتَثْنُونَ﴾

Nhưng đã không nói 'Insha-Allah' (nếu Allah muốn).

﴿فَطَافَ عَلَيْهَا طَائِفٌ مِنْ رَبِّكَ وَهُمْ نَائِمُونَ﴾

Do đó, một tai ương từ Thượng Đế của Ngươi đã đến tàn phá nó trong lúc chúng ngủ;

﴿فَأَصْبَحَتْ كَالصَّرِيمِ﴾

Cho nên, sáng hôm sau nó (vườn trái cây) đen thui như bị cháy rụi.

﴿فَتَنَادَوْا مُصْبِحِينَ﴾

Và khi trời hừng sáng, chúng gọi nhau (bảo);

﴿أَنِ اغْدُوا عَلَىٰ حَرْثِكُمْ إِنْ كُنْتُمْ صَارِمِينَ﴾

“Nếu các anh muốn hái trái thì hãy ra vườn sớm!”

﴿فَانْطَلَقُوا وَهُمْ يَتَخَافَتُونَ﴾

"Rồi chúng vừa đi vừa hạ thấp giọng, thì thào với nhau:”

﴿أَنْ لَا يَدْخُلَنَّهَا الْيَوْمَ عَلَيْكُمْ مِسْكِينٌ﴾

“Chớ để cho một người nghèo nào vào vườn hái trái cây trước các anh.”

﴿وَغَدَوْا عَلَىٰ حَرْدٍ قَادِرِينَ﴾

Và chúng ra đi thật sớm, nhất quyết trong ý đồ ngăn chặn đó.

﴿فَلَمَّا رَأَوْهَا قَالُوا إِنَّا لَضَالُّونَ﴾

Nhưng khi thấy nó (ngôi vườn), chúng bảo nhau: “Quả thật, chúng ta đi lạc.”

﴿بَلْ نَحْنُ مَحْرُومُونَ﴾

“Không, chúng ta bị tước mất hoa màu.”

﴿قَالَ أَوْسَطُهُمْ أَلَمْ أَقُلْ لَكُمْ لَوْلَا تُسَبِّحُونَ﴾

Một người ôn hòa nhất trong bọn lên tiếng: “Há tôi đã không nói với các anh tại sao các anh không tán dương (Allah)?”

﴿قَالُوا سُبْحَانَ رَبِّنَا إِنَّا كُنَّا ظَالِمِينَ﴾

Chúng liền thốt: “Quang vinh thay Thượng Đế bầy tôi! Bầy tôi đã sai quấy.”

﴿فَأَقْبَلَ بَعْضُهُمْ عَلَىٰ بَعْضٍ يَتَلَاوَمُونَ﴾

Rồi chúng quay lại trách móc nhau.

﴿قَالُوا يَا وَيْلَنَا إِنَّا كُنَّا طَاغِينَ﴾

Chúng than: “Thật khổ thân chúng ta! Chúng ta là những kẻ phạm tội.”

﴿عَسَىٰ رَبُّنَا أَنْ يُبْدِلَنَا خَيْرًا مِنْهَا إِنَّا إِلَىٰ رَبِّنَا رَاغِبُونَ﴾

Có lẽ Thượng Đế chúng ta sẽ đổi lại cho chúng ta một ngôi vườn khác tốt hơn nó. Chúng ta là những người cầu khẩn Thượng Đế chúng ta.

﴿كَذَٰلِكَ الْعَذَابُ ۖ وَلَعَذَابُ الْآخِرَةِ أَكْبَرُ ۚ لَوْ كَانُوا يَعْلَمُونَ﴾

Sự trừng phạt (ở đời này) đúng như thế. Nhưng sự trừng phạt ở đời sau chắc chắn sẽ to lớn hơn nếu họ biết.

﴿إِنَّ لِلْمُتَّقِينَ عِنْدَ رَبِّهِمْ جَنَّاتِ النَّعِيمِ﴾

Những người sợ Allah sẽ hưởng thiên đàng Hạnh phúc nơi Thượng Đế của họ.

﴿أَفَنَجْعَلُ الْمُسْلِمِينَ كَالْمُجْرِمِينَ﴾

Há TA sẽ đối xử với những người Muslim như những kẻ tội lỗi hay sao?

﴿مَا لَكُمْ كَيْفَ تَحْكُمُونَ﴾

Các ngươi gặp chuyện gì vậy? Các ngươi xử lý ra sao?

﴿أَمْ لَكُمْ كِتَابٌ فِيهِ تَدْرُسُونَ﴾

Hoặc phải chăng các ngươi có Kinh Sách mà các ngươi học hỏi.

﴿إِنَّ لَكُمْ فِيهِ لَمَا تَخَيَّرُونَ﴾

Rằng các ngươi có được trong đó mọi điều mà các ngươi chọn?

﴿أَمْ لَكُمْ أَيْمَانٌ عَلَيْنَا بَالِغَةٌ إِلَىٰ يَوْمِ الْقِيَامَةِ ۙ إِنَّ لَكُمْ لَمَا تَحْكُمُونَ﴾

Há các ngươi đã nhận từ TA một lời thề có hiệu lực cho đến Ngày phục sinh (rằng) các ngươi sẽ có được bất cứ điều gì mà các ngươi muốn?

﴿سَلْهُمْ أَيُّهُمْ بِذَٰلِكَ زَعِيمٌ﴾

Hãy hỏi chúng, ai là người của chúng sẽ đứng ra bảo đảm điều đó!

﴿أَمْ لَهُمْ شُرَكَاءُ فَلْيَأْتُوا بِشُرَكَائِهِمْ إِنْ كَانُوا صَادِقِينَ﴾

Hoặc phải chăng chúng có những kẻ hợp tác (đứng ra bảo đảm)? Hãy đưa những 'kẻ hợp tác' của chúng đến nếu chúng nói thật.

﴿يَوْمَ يُكْشَفُ عَنْ سَاقٍ وَيُدْعَوْنَ إِلَى السُّجُودِ فَلَا يَسْتَطِيعُونَ﴾

Vào Ngày mà ống Chân sẽ được để lộ ra và chúng sẽ được gọi đến để phủ phục trước (Allah) Nhưng chúng sẽ không thể quỳ được-

﴿خَاشِعَةً أَبْصَارُهُمْ تَرْهَقُهُمْ ذِلَّةٌ ۖ وَقَدْ كَانُوا يُدْعَوْنَ إِلَى السُّجُودِ وَهُمْ سَالِمُونَ﴾

Cặp mắt của chúng nhìn gục xuống, đầy xấu hổ. Và quả thật trước kia chúng đã được mời đến để phủ phục trong lúc hãy còn khỏe mạnh.

﴿فَذَرْنِي وَمَنْ يُكَذِّبُ بِهَٰذَا الْحَدِيثِ ۖ سَنَسْتَدْرِجُهُمْ مِنْ حَيْثُ لَا يَعْلَمُونَ﴾

Thôi, hãy để mặc TA với kẻ phủ nhận lời tường trình này (Qur'an). TA sẽ lôi chúng dần dần từ nơi mà chúng không nhận thấy.

﴿وَأُمْلِي لَهُمْ ۚ إِنَّ كَيْدِي مَتِينٌ﴾

Và TA tạm tha cho chúng. Chắc chắn, kế hoạch của TA rất mãnh liệt.

﴿أَمْ تَسْأَلُهُمْ أَجْرًا فَهُمْ مِنْ مَغْرَمٍ مُثْقَلُونَ﴾

Hoặc phải chăng Ngươi đã đòi chúng tiền thù lao cho nên chúng nợ nần chồng chất?

﴿أَمْ عِنْدَهُمُ الْغَيْبُ فَهُمْ يَكْتُبُونَ﴾

Hoặc phải chăng chúng nắm điều vô hình nên chúng viết nó xuống?

﴿فَاصْبِرْ لِحُكْمِ رَبِّكَ وَلَا تَكُنْ كَصَاحِبِ الْحُوتِ إِذْ نَادَىٰ وَهُوَ مَكْظُومٌ﴾

Bởi thế, hãy kiên nhẫn chờ đợi Lệnh Phán của cảa Ngươi và chớ như Người Bạn của con Cá(150) (Yunus) khi Y cầu cứu trong lúc đau khổ tuyệt vọng.

﴿لَوْلَا أَنْ تَدَارَكَهُ نِعْمَةٌ مِنْ رَبِّهِ لَنُبِذَ بِالْعَرَاءِ وَهُوَ مَذْمُومٌ﴾

Nếu không do một Ân Huệ từ Thượng Đế của Y ban cho; và Y đã được quẳng lên bãi biển hoang vu, và đáng bị khiển trách.

﴿فَاجْتَبَاهُ رَبُّهُ فَجَعَلَهُ مِنَ الصَّالِحِينَ﴾

Rồi Thượng Đế của Y đã chọn Y và làm cho Y trở thành một người đức hạnh.

﴿وَإِنْ يَكَادُ الَّذِينَ كَفَرُوا لَيُزْلِقُونَكَ بِأَبْصَارِهِمْ لَمَّا سَمِعُوا الذِّكْرَ وَيَقُولُونَ إِنَّهُ لَمَجْنُونٌ﴾

Và những kẻ không có đức tin muốn làm cho Ngươi sa chân với cái nhìn của chúng khi chúng nghe Lời Nhắc Nhở (của Qur'an); và chúng lên tiếng bảo: “Rõ thật, Y (Muhammad) là một thằng điên.”

﴿وَمَا هُوَ إِلَّا ذِكْرٌ لِلْعَالَمِينَ﴾

Và Nó (Qur'an) chỉ là Lời Nhắc Nhở (của Allah) ban cho muôn loài.

الترجمات والتفاسير لهذه السورة: