المدّثر

تفسير سورة المدّثر

الترجمة الفيتنامية للمختصر في تفسير القرآن الكريم

Vèneto

الترجمة الفيتنامية للمختصر في تفسير القرآن الكريم

الترجمة الفيتنامية للمختصر في تفسير القرآن الكريم، صادر عن مركز تفسير للدراسات القرآنية.

﴿بِسْمِ اللَّهِ الرَّحْمَٰنِ الرَّحِيمِ يَا أَيُّهَا الْمُدَّثِّرُ﴾

Hỡi người đang cuộn mình trong chiếc áo của y (tức Thiên Sứ Muhammad)!

﴿قُمْ فَأَنْذِرْ﴾

Ngươi hãy đứng lên và cảnh báo nhân loại về sự trừng phạt của Allah.

﴿وَرَبَّكَ فَكَبِّرْ﴾

Và Ngươi hãy tôn vinh Thượng Đế của Ngươi.

﴿وَثِيَابَكَ فَطَهِّرْ﴾

Và Ngươi hãy tẩy sạch bản thân Ngươi khỏi tội lỗi và tẩy sạch y phục của Ngươi khỏi những vết bẩn.

﴿وَالرُّجْزَ فَاهْجُرْ﴾

Và Ngươi hãy tránh xa việc thờ phượng các bục tượng.

﴿وَلَا تَمْنُنْ تَسْتَكْثِرُ﴾

Và Ngươi chớ mong Thượng Đế của Ngươi trả ơn cho việc Ngươi làm nhiều việc thiện tốt.

﴿وَلِرَبِّكَ فَاصْبِرْ﴾

Ngươi hãy kiên nhẫn chịu đựng vì Allah trước những trở ngại và khó khăn.

﴿فَإِذَا نُقِرَ فِي النَّاقُورِ﴾

Khi tiếng Còi thứ hai được hụ lên - tiếng Còi cho sự Phục Sinh.

﴿فَذَٰلِكَ يَوْمَئِذٍ يَوْمٌ عَسِيرٌ﴾

Đó sẽ là Ngày khắc nghiệt.

﴿عَلَى الْكَافِرِينَ غَيْرُ يَسِيرٍ﴾

Đối với những kẻ vô đức tin nơi Allah và các vị Thiên Sứ của Ngài chắc chắn sẽ không dễ dàng trong Ngày hôm đó.

﴿ذَرْنِي وَمَنْ خَلَقْتُ وَحِيدًا﴾

Hỡi Thiên Sứ Muhammad, Ngươi cứ để mặc TA (Allah) với kẻ mà TA đã tạo y ra trong đơn độc khi sinh ra tức không tiền bạc và không con cái - ý nói ông Al-Waleed bin Al-Mughairah).

﴿وَجَعَلْتُ لَهُ مَالًا مَمْدُودًا﴾

Và sau đó TA ban cho y nhiều tiền của.

﴿وَبَنِينَ شُهُودًا﴾

Và TA đã ban cho y con cái đầy đàn luôn bên cạnh y bì khối tài sản khối tài sản khổng lồ của y.

﴿وَمَهَّدْتُ لَهُ تَمْهِيدًا﴾

Và TA đã làm cho y dễ dàng trong cuộc sống, bổng lộc và con cái.

﴿ثُمَّ يَطْمَعُ أَنْ أَزِيدَ﴾

Rồi với sự vô đức tin của y, y còn muốn TA ban thêm cho y nhiều hơn sau khi TA đã ban cho y tất cả những thứ đó.

﴿كَلَّا ۖ إِنَّهُ كَانَ لِآيَاتِنَا عَنِيدًا﴾

Sự việc sẽ không như y đã suy nghĩ và mong muốn, quả thật y đã chống đối và phủ nhận các Lời Mặc Khải của TA đã ban xuống cho vị Thiên Sứ của TA.

﴿سَأُرْهِقُهُ صَعُودًا﴾

TA sẽ gây khó khăn cho y từ sự trừng phạt mà y không có khả năng chịu đựng.

﴿إِنَّهُ فَكَّرَ وَقَدَّرَ﴾

Quả thật, kẻ vô đức tin này, kẻ mà đã được ban cho các ân huệ đó suy tính để nói về Qur'an nhằm vô hiệu Nó và y đã mưu đồ trong bản thân y.

﴿فَقُتِلَ كَيْفَ قَدَّرَ﴾

Do đó, y chỉ bị nguyền rủa và bị trừng phạt dù có mưu đồ và tính toán ra sao.

﴿ثُمَّ قُتِلَ كَيْفَ قَدَّرَ﴾

Rồi y chỉ bị nguyền rủa và bị trừng phạt dù có mưu đồ và tính toán ra sao.

﴿ثُمَّ نَظَرَ﴾

Rôi y quay lại nhìn để xem xét những gì y nói.

﴿ثُمَّ عَبَسَ وَبَسَرَ﴾

Rồi y cau mày và nhăn mặt khi không tìm thấy điều nào để phỉ báng Qur'an.

﴿ثُمَّ أَدْبَرَ وَاسْتَكْبَرَ﴾

Rồi y quay lưng với đức tin Iman và ngạo mạn không chịu theo Thiên Sứ Muhammad.

﴿فَقَالَ إِنْ هَٰذَا إِلَّا سِحْرٌ يُؤْثَرُ﴾

Y nói: Qur'an được Muhammad mang đến không phải là lời phán của Allah mà thật ra chỉ là bùa mê hoặc được truyền lại từ những người trước.

﴿إِنْ هَٰذَا إِلَّا قَوْلُ الْبَشَرِ﴾

Y bảo: Qur'an không phải là lời phán của Allah mà thật ra chỉ là lời của con người.

﴿سَأُصْلِيهِ سَقَرَ﴾

TA (Allah) sẽ đày kẻ bất tin này vào một tầng của Hỏa Ngục, đó là Saqar, để y nếm cái nóng của nó.

﴿وَمَا أَدْرَاكَ مَا سَقَرُ﴾

Hỡi Muhammad, Ngươi có biết Saqar là gì không?

﴿لَا تُبْقِي وَلَا تَذَرُ﴾

Saqar là nơi mà lửa của nó sẽ không chừa và bỏ sót bất cứ thứ gì từ cơ thể của người bị trừng phạt trong đó, nó sẽ đốt cháy tất cả thịt và xương, rồi sau đó thịt và xương sẽ trở lại như cũ, sự trừng phạt cứ tiệp tục như thế.

﴿لَوَّاحَةٌ لِلْبَشَرِ﴾

Nó sẽ đốt cháy và làm biến dạng lớp da.

﴿عَلَيْهَا تِسْعَةَ عَشَرَ﴾

Có mười chín vị Thiên Thần cai quản tầng Saqar.

﴿وَمَا جَعَلْنَا أَصْحَابَ النَّارِ إِلَّا مَلَائِكَةً ۙ وَمَا جَعَلْنَا عِدَّتَهُمْ إِلَّا فِتْنَةً لِلَّذِينَ كَفَرُوا لِيَسْتَيْقِنَ الَّذِينَ أُوتُوا الْكِتَابَ وَيَزْدَادَ الَّذِينَ آمَنُوا إِيمَانًا ۙ وَلَا يَرْتَابَ الَّذِينَ أُوتُوا الْكِتَابَ وَالْمُؤْمِنُونَ ۙ وَلِيَقُولَ الَّذِينَ فِي قُلُوبِهِمْ مَرَضٌ وَالْكَافِرُونَ مَاذَا أَرَادَ اللَّهُ بِهَٰذَا مَثَلًا ۚ كَذَٰلِكَ يُضِلُّ اللَّهُ مَنْ يَشَاءُ وَيَهْدِي مَنْ يَشَاءُ ۚ وَمَا يَعْلَمُ جُنُودَ رَبِّكَ إِلَّا هُوَ ۚ وَمَا هِيَ إِلَّا ذِكْرَىٰ لِلْبَشَرِ﴾

Và TA (Allah) chỉ dùng các Thiên Thần làm các vị cai quản Hỏa Ngục bởi con người không có khả năng chống lại họ. Và quả thật, Abu Jahal là kẻ nói dối khi hắn cho rằng hắn và đồng bọn của hắn có khả năng gây ép các Thiên Thần để họ đưa chúng ra khỏi Hỏa Ngục.
Và TA ấn định số lượng của họ chỉ để thử thách những người vô đức tin nơi Allah bắt họ phải chịu sự trừng phạt được nhân lên cho điều họ đã nói; để thuyết phục những người Do Thái được ban cho Kinh Tawrah và những người Thiên Chúa được ban cho kinh Injil khi mà Qur'an được ban xuống để xác thực những điều trong hai Kinh sách đó; để gia tăng đức tin cho những người có đức tin khi những người của Kinh Sách tương đồng với họ; và để những người vẫn còn có sự nghi ngờ trong đức tin cũng như những người vô đức tin nói: Allah muốn điều gì ở việc đưa ra con số kỳ quặc thế này?! Giống như Ngài muốn làm lầm lạc những kẻ phủ nhận số lượng này đồng thời hướng dẫn những người có đức tin nơi nó. Allah làm ai lầm lạc tùy ý Ngài và hướng dẫn ai tùy ý Ngài. Và không ai biết rõ số lượng của các Thiên Thần của Ngài ngoại trừ một mình Ngài.
Bởi thế, Abu Jahal - kẻ đã nói một cách khinh thường và phủ nhận: "Chẳng lẻ Muhammad chỉ có 19 vị hỗ trợ thôi sao?!" - hãy biết rằng đó chỉ là lời nhắc nhở loài người để họ ý thức được sự vĩ đại của Allah như thế nào mà thôi.

﴿كَلَّا وَالْقَمَرِ﴾

Thật sự không giống như lời mà một số kẻ thờ đa thần đã khẳng định rằng chúng đủ sức chống lại những vị cai quản Hỏa Ngục. Allah thề bởi mặt trăng.

﴿وَاللَّيْلِ إِذْ أَدْبَرَ﴾

Allah thề bởi ban đêm khi nó rời đi.

﴿وَالصُّبْحِ إِذَا أَسْفَرَ﴾

Allah thề bởi bình minh sáng tỏ.

﴿إِنَّهَا لَإِحْدَى الْكُبَرِ﴾

Quả thật, Hỏa Ngục là một đại họa.

﴿نَذِيرًا لِلْبَشَرِ﴾

Một sự cảnh báo đáng sợ đến loài người.

﴿لِمَنْ شَاءَ مِنْكُمْ أَنْ يَتَقَدَّمَ أَوْ يَتَأَخَّرَ﴾

Hỡi nhân loại, để ai trong các ngươi muốn tiên phong bởi đức tin nơi Allah và làm viện thiện tốt hoặc lùi về phía sau bởi sự vô đức tin và bất tuân Allah.

﴿كُلُّ نَفْسٍ بِمَا كَسَبَتْ رَهِينَةٌ﴾

Mỗi con người sẽ bị nhốt lại trong những việc làm xấu của họ, cho dù họ có làm điều tốt đi chăng nữa thì cũng không thoát khỏi được sự trừng phạt ở Đời Sau.

﴿إِلَّا أَصْحَابَ الْيَمِينِ﴾

Ngoại trừ những người có đức tin mới không bị bắt tội bởi những tội lỗi của họ. Chỉ có họ mới được xí xóa tội lỗi bởi những việc làm thiện tốt của họ.

﴿فِي جَنَّاتٍ يَتَسَاءَلُونَ﴾

Vào Ngày Phán Xét, ở trong các Ngôi Vườn Thiên Đàng, họ hỏi nhau.

﴿عَنِ الْمُجْرِمِينَ﴾

Những người ở trong các Ngôi Vườn Thiên Đàng hỏi nhau về những người vô đức tin, những người đã hủy diệt bản thân họ bởi các việc làm bất tuân của họ.

﴿مَا سَلَكَكُمْ فِي سَقَرَ﴾

Những người trong Thiên Đàng hỏi những người trong Hỏa Ngục: điều gì đã đưa các người vào Hỏa Ngục vậy?

﴿قَالُوا لَمْ نَكُ مِنَ الْمُصَلِّينَ﴾

Những kẻ vô đức tin trả lời: Bởi vì chúng tôi đã không duy trì lễ nguyện Salah bắt buộc trên cuộc sống trần gian.

﴿وَلَمْ نَكُ نُطْعِمُ الْمِسْكِينَ﴾

Và bởi vì chúng tôi đã không nuôi ăn những người nghèo từ bổng lộc mà Allah đã ban cho chúng tôi.

﴿وَكُنَّا نَخُوضُ مَعَ الْخَائِضِينَ﴾

Và bởi vì chúng tôi đã thường ở cùng với những kẻ sai quấy và chúng tôi đã thường cùng những kẻ lầm lạc nói chuyện tầm phào vô bổ.

﴿وَكُنَّا نُكَذِّبُ بِيَوْمِ الدِّينِ﴾

Và chúng tôi luôn không tin nơi Ngày Thưởng Phạt.

﴿حَتَّىٰ أَتَانَا الْيَقِينُ﴾

Chúng tôi cứ vô đức và bất tuân cho tới khi cái chết đến với chúng tôi, và chúng tôi đã không còn cơ hội quay đầu sám hối.

﴿فَمَا تَنْفَعُهُمْ شَفَاعَةُ الشَّافِعِينَ﴾

Vào Ngày Phán Xét, sẽ không có một sự can thiệp nào có thể giúp được họ, dù đó là các vị ngoan đạo đức hạnh, các vị Thiên Sứ, hay các vị Thiên thần đi chăng nữa; bởi lẽ điều kiện được chấp nhận sự can thiệp là có sự hài lòng của Đấng Độ Lượng cho phép.

﴿فَمَا لَهُمْ عَنِ التَّذْكِرَةِ مُعْرِضِينَ﴾

Vậy điều gì đã làm cho những kẻ thờ đa thần này quay lưng với Qur'an kia chứ?

﴿كَأَنَّهُمْ حُمُرٌ مُسْتَنْفِرَةٌ﴾

Chúng quay lưng bỏ chạy khỏi Qur'an giống như những con ngựa vằn khiếp đảm.

﴿فَرَّتْ مِنْ قَسْوَرَةٍ﴾

Tháo chạy trước con sư tử vì khiếp sợ.

﴿بَلْ يُرِيدُ كُلُّ امْرِئٍ مِنْهُمْ أَنْ يُؤْتَىٰ صُحُفًا مُنَشَّرَةً﴾

Không, mỗi tên trong những kẻ thờ đa thần này muốn ngay trên đầu của chúng có từng tờ Kinh được trải ra thông tin cho chúng biết rằng Muhammad là Thiên Sứ được Alalh phái đến. Đó không phải là do ít bằng chứng hoặc thiếu cơ sở để chứng mình mà thật ra chỉ vì chúng tự cao và ngạo mạn.

﴿كَلَّا ۖ بَلْ لَا يَخَافُونَ الْآخِرَةَ﴾

Sự việc không phải như thế, nguyên nhân là bởi vì chúng ngoan cố trong sự lầm lạc, bởi vì chúng không tin có sự trừng phạt của Ngày Sau, nên chúng cứ ở trên sự vô đức tin của chúng.

﴿كَلَّا إِنَّهُ تَذْكِرَةٌ﴾

Không, quả thật Qur'an này đây là một sự khuyên răn và nhắc nhở.

﴿فَمَنْ شَاءَ ذَكَرَهُ﴾

Bởi thế, ai muốn thì hãy đọc Qur'an và ghi nhớ những lời khuyên răn và nhắc nhở của Nó.

﴿وَمَا يَذْكُرُونَ إِلَّا أَنْ يَشَاءَ اللَّهُ ۚ هُوَ أَهْلُ التَّقْوَىٰ وَأَهْلُ الْمَغْفِرَةِ﴾

Và không ai được khuyên răn và nhắc nhở từ Qur'an ngoài trừ những ai mà Allah muốn, Ngài là Đấng phải được kính sợ để thực hiện theo mệnh lệnh của Ngài và tránh xa những điều Ngài nghiêm cấm, và Ngài là Đấng tha thứ các tội lỗi cho đám bề tôi của Ngài khi họ thành tâm quay về sám hối với Ngài.

الترجمات والتفاسير لهذه السورة: